Bướu tuyến giáp (hay còn gọi bướu giáp, bướu cổ) là bệnh do
sự tăng kích thước của tuyến giáp gây nên. Theo các bác sĩ, phần lớn bướu giáp
thuộc loại lành tính. Nguyên nhân chính của bệnh thường là do tình trạng thiếu
i-ốt trong khẩu phần ăn hàng ngày, chính vì vậy để phòng bệnh, các gia đình,
người dân, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em cần tích cực bổ sung đủ i-ốt trong dinh
dưỡng hàng ngày.
Nên điều trị sớm
Tuần đầu tháng 5 vừa qua, chị N.T.T.H (26 tuổi, ngụ ở quận
Thốt Nốt, TP Cần Thơ) vừa được các bác sĩ khoa Ngoại lồng ngực - mạch máu, Bệnh
viện Đa khoa TP Cần Thơ phẫu thuật điều trị bướu giáp. Theo lời chị H. kể, chị
phát hiện bị bệnh cách đây ba năm, khi tình cờ thấy cục u bất thường nổi ở cổ.
Sau thời gian điều trị nội khoa, dạo gần đây, chị thấy bướu phát triển to hơn,
khiến chị ăn uống khó nuốt. Khi chuyển đến Bệnh viện Đa khoa TP Cần Thơ khám,
siêu âm, sinh thiết bướu, bác sĩ chẩn đoán chị bị bướu giáp đa nhân, hai bên
thùy, bướu có kích thước tương đối lớn nên được chỉ định mổ hở. Cùng theo chăm
sóc cho chị H. trong lúc nằm viện phẫu thuật bướu giáp, mẹ của chị H. cho biết:
“Mới đây, tôi cũng đi khám và phát hiện bướu cổ nhưng là bướu nhỏ, lành tính,
bác sĩ nói chưa cần mổ, điều trị nội khoa và ăn uống bổ sung i-ốt. Nghe bác sĩ
tư vấn tôi mới quan tâm chứ từ trước giờ, theo thói quen, gia đình tôi chỉ dùng
muối thường nấu ăn, chứ không dùng muối i-ốt”.
Chị H.T.P (34 tuổi, ở quận Ninh Kiều, TP Cần Thơ), cũng phát
hiện bệnh bướu cổ khoảng hai tháng nay nhưng là dạng bướu đơn nhân, một bên
thùy nên được các bác sĩ Bệnh viện Đa khoa TP Cần Thơ mổ nội soi. Sau ba ngày
phẫu thuật, chị H.T.P đã khỏe và được xuất viện.
BS.CKII Phạm Văn Phương, Trưởng khoa Ngoại lồng ngực - mạch
máu, Bệnh viện Đa khoa TP Cần Thơ cho biết: “Mổ nội soi và mổ hở kết quả điều
trị như nhau. Phẫu thuật bướu giáp bằng nội soi có ưu điểm là ít xâm lấn, rút
ngắn thời gian mổ, giúp bệnh nhân ít đau hơn, giảm thời gian nằm viện, đáp ứng nhu
cầu thẩm mỹ vì không để lại sẹo nơi vùng cổ như mổ hở, tuy nhiên chỉ định phẫu
thuật nội soi bướu giáp chỉ trong những trường hợp bướu giáp lành tính đơn nhân
một thùy hoặc đa nhân một thùy và bệnh nhân muốn thẩm mỹ. Trong trường hợp bướu
quá lớn, bướu giáp đa nhân hai thùy, hoặc phải cắt toàn bộ tuyến giáp thì cần
phải mổ hở. Trước khi mổ, bệnh nhân sẽ được tầm soát kỹ xem bướu lành hay bướu
ác”.
Mỗi năm, Bệnh viện Đa khoa TP Cần Thơ tiếp nhận phẫu thuật từ
hàng trăm trường hợp bệnh lý tuyến giáp. Theo các bác sĩ, bệnh nhân bướu cổ, nếu
phát hiện trễ, bướu quá to hay bướu ác sẽ rất khó điều trị dứt điểm.
Bổ sung i-ốt để phòng bệnh
Bệnh bướu cổ khá thường gặp, tỷ lệ nữ nhiều hơn nam, nguyên
nhân chủ yếu là do các rối loạn thiếu i-ốt. Phần lớn bệnh nhân mắc bướu cổ là đối
tượng nhạy cảm với thiếu i-ốt: trẻ em từ 8-12 tuổi và phụ nữ trong độ tuổi sinh
sản. Bác sĩ Phương khuyến cáo: “Nếu người bệnh phát hiện có u ở cổ nổi bất thường,
ăn uống thấy vướng ở vùng cổ, nên nhanh chóng đến cơ cở y tế để khám, tư vấn,
xác định loại bướu, từ đó có hướng điều trị sớm, phù hợp, kịp thời, tránh tình
trạng phát hiện trễ, bướu quá to sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe, thẩm mỹ của bệnh
nhân và gây khó khăn cho việc điều trị. Biến chứng của bướu cổ là kích thước
vùng cổ to lên, gây chèn ép khí quản, thực quản, dây thần kinh nên người bệnh thường
cảm thấy khó thở, khó nuốt, nhức đầu...”.
Các bác sĩ cũng lưu ý đối với những người trong gia đình có
cha mẹ hoặc anh chị em bị bướu cổ nên đi siêu âm định kỳ từ 3-6 tháng/lần để
theo dõi, bướu cổ cũng có khả năng di truyền. Bệnh nhân có bướu cổ, kích thước
nhỏ hơn 1cm, đang điều trị nội khoa cũng cần tái khám, theo dõi tầm soát kỹ bướu
lành tính hay ác tính, kể cả việc tầm soát xem có u nang ở những cơ quan khác
như buồng trứng, vú hay không. Nhiều trường hợp bướu cổ ở người trẻ có thể là
nguy cơ của ung thư nhưng do bướu nhỏ, người ta thường bỏ qua dấu hiệu này mà
không tầm soát ung thư sớm dẫn đến phát hiện bệnh trễ.
Để dự phòng bệnh bướu cổ, ngay từ nhỏ nên chú ý bổ sung đầy
đủ i-ốt trong chế độ ăn uống hàng ngày. Theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới
(WHO), lượng i-ốt trong khẩu phần ăn hằng ngày cho các đối tượng ở các lứa tuổi
như sau: thanh thiếu niên và người trưởng thành: 150 mcg/ngày; phụ nữ có thai
hoặc đang cho con bú: 200 mcg/ngày; trẻ em từ 1-11 tuổi: 90-120 mcg/ngày. Ngoài
sử dụng muối i-ốt, các bà nội trợ cũng nên tăng cường các thức ăn từ biển trong
bữa cơm hàng ngày như: cá biển, rong biển…; đặc biệt rong biển có hàm lượng i-ốt
rất cao, hạn chế ăn các rau họ cải vì có chứa các chất kháng i-ốt.