Nguyên nhân
Ở Việt Nam, theo số liệu điều tra về thiếu máu toàn quốc của
Viện Dinh Dưỡng quốc gia năm 1995 cho thấy thiếu máu ở phụ nữ có thai là 52,7%;
ở phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ là 40,2% và ở trẻ em là 45,3%.
Đến năm 2008, thì các tỷ lệ này đã giảm, cụ thể: tỷ lệ trẻ
em dưới 5 tuổi bị TMDD còn 29,2%, ở phụ nữ là có thai là 36,5% và ở phụ nữ tuổi
sinh đẻ chung là 28,8%, tuy nhiên vẫn ở mức trung bình về ý nghĩa sức khoẻ cộng
đồng.
Trong hàng loạt các yếu tố nguyên nhân dẫn đến thiếu máu,
thì thiếu sắt là nguyên nhân hàng đầu. TMDD do thiếu sắt xảy ra khi lượng sắt
được hấp thu không đủ để đáp ứng nhu cầu cơ thể, đây là một bệnh tiến triển âm
thầm nên thường bị bỏ qua.
Nguyên nhân chủ yếu của bệnh TMDD do thiếu sắt là do chế độ
ăn không đầy đủ dinh dưỡng, thiếu chất sắt so với nhu cầu của cơ thể, ngoài ra
còn có nguyên nhân do tình trạng nhiễm ký sinh trùng đường ruột, đặc biệt là
giun móc.
Những đối tượng có nguy cơ dễ bị thiếu sắt là: trẻ em (vì ở
lứa tuổi đang lớn nhanh nên có nhu cầu sắt cao); phụ nữ lứa tuổi sinh đẻ (15-49
tuổi) bị mất sắt theo kinh nguyệt hàng tháng; phụ nữ có thai (vì cần nhu cầu sắt
cao cho sự phát triển của thai, nhau thai và tăng khối lượng máu của mẹ); phụ nữ
cho con bú (sắt được tiết theo sữa nuôi con).
Biểu hiện thiếu máu
Thiếu máu nhẹ: gây biểu hiện mệt mỏi, mất ngủ, kém tập
trung.
Thiếu máu nặng: khó thở khi lao động gắng sức, hay hoa mắt,
chóng mặt.
Các dấu hiệu khi thăm khám: da xanh, niêm mạc nhợt (niêm mạc
mắt, lợi). Móng tay khum hình thìa, đầu lưỡi có đám hạt sắc tố đỏ sẫm. Trẻ em:
lòng bàn tay nhợt.
Khi thiếu máu nặng, cần đến cơ sở y tế làm xét nghiệm để chẩn
đoán thiếu máu.
Hậu quả thiếu máu
Ảnh hưởng tới khả năng lao động: người thiếu máu thường có
năng suất lao động thấp hơn hẳn người bình thường.
Ảnh hưởng tới năng lực trí tuệ: những người thiếu máu thường
có biểu hiện mất ngủ, mệt mỏi, kém chú ý, kém tập trung, dễ bị kích thích. Trẻ
em thiếu máu thường có kết quả học tập kém hơn trẻ bình thường, ngồi học hay ngủ
gật trong lớp, giảm phát triển trí tuệ, thể lực, vận động, giảm sức đề kháng với
bệnh nhiễm trùng.
Ảnh hưởng tới thai sản: tăng nguy cơ đẻ non, tăng tỷ lệ mắc
bệnh và tử vong của mẹ và con. Những bà mẹ bị thiếu máu có nguy cơ sinh con nhẹ
cân và dễ bị chảy máu ở thời kỳ hậu sản.
Các biện pháp phòng chống thiếu máu
1. Cải thiện bữa ăn:
Đối với bà mẹ: Cần tăng cường thực phẩm giàu sắt và thực phẩm
hỗ trợ hấp thu sắt, hạn chế sử dụng các thực phẩm hay đồ uống chứa chất ức chế
hấp thu sắt (nước chè đặc, cà phê).
Đối với trẻ nhỏ: Cho bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu, và tiếp
tục cho bú đến 24 tháng, kết hợp ăn bổ sung hợp lý. Thực hiện đa dạng hóa bữa
ăn: Tăng cường cho trẻ ăn những thức ăn giàu sắt, thực phẩm giàu vitamin C.
Nguồn sắt trong thức ăn: có nhiều trong thịt hoặc phủ tạng của
động vật; cá, tôm cua, sò, hến; các loại đậu đỗ, giá, rau lá màu xanh đậm…
2. Bổ sung sắt và đa vi chất dinh dưỡng cho các đối tượng có
nguy cơ cao: phụ nữ mang thai, bà mẹ cho con bú trong 2 tháng đầu, phụ nữ trong
độ tuổi sinh đẻ và trẻ em.
Cán bộ y tế và cộng tác viên dinh dưỡng cần cung cấp đủ
thông tin, giải thích hướng dẫn và giám sát việc uống viên sắt đều đặn, đủ liều
theo chỉ định; bên cạnh đó tăng cường truyền thông tích cực thay đổi kiến thức,
thực hành đa dạng hóa bữa ăn của phụ nữ tuổi sinh đẻ và bà mẹ có con nhỏ giúp cải
thiện tình trạng dinh dưỡng và thiếu máu ở bà mẹ và trẻ em.
3. Phòng chống bệnh nhiễm trùng, nhiễm giun sán.
Tiến hành tẩy giun định kỳ khi trẻ 2 tuổi.
Thực hiện vệ sinh môi trường, sử dụng nước sạch, hố xí hợp vệ sinh, quản lý rác thải tránh gây ô nhiễm.